Thứ Tư, 7 tháng 12, 2016

Khám phá về chuyện thị trường cho người cao tuổi: Tiềm năng lớn

Thực tế, tuy mới tham gia thị trường chưa lâu nhưng Majesty XO đã đạt tốc độ tăng trưởng rất tốt. Hiện sản phẩm đã có mặt tại hơn 10.000 cửa hàng bán lẻ trên toàn quốc với cơ chế chính sách giá ổn định, phù hợp. Tuy nhiên, "tốc độ tăng trưởng của giai đoạn đầu chưa nói lên gì nhiều mà vẫn cần củng cố hệ thống và đạt được độ phủ tốt hơn nữa ở các tỉnh-thành để người tiêu dùng được tiếp cận với những sản phẩm tốt nhất", bà Thu Phương nói.
Sản phẩm dành cho người lớn tuổi chưa được nhiều doanh nghiệp quan tâm
Sữa và thực phẩm
Việt Nam có hơn 5,6 triệu người cao tuổi (từ 65 tuổi trở lên), thế nhưng, sản phẩm dành cho đối tượng này chưa được đáp ứng. Khảo sát mới đây của Nielsen Việt Nam với 30.000 người, cho thấy, sản phẩm và dịch vụ cho người cao tuổi chưa được các doanh nghiệp quan tâm. Trong đó, có đến 43% số người được hỏi cho rằng quá khó để kiếm được các sản phẩm đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng cho đối tượng này.
Thực tế tại các siêu thị cũng cho thấy có quá ít những sản phẩm riêng biệt dành cho người cao tuổi. Nhiều nhất hiện nay là nhóm sữa dinh dưỡng nhưng sữa dành cho người cao tuổi cũng chỉ chiếm khoảng 10-15% trong tổng số các mặt hàng sữa bán ở siêu thị. Trong đó, sữa ngoại có nhãn hàng Anlene của Công ty Fonterra Brand Việt Nam, sữa Majesty XO của Công ty Nam Yang (Hàn Quốc).
Trong nước, từ vài năm nay, bên cạnh sữa dành cho trẻ em, Vinamilk cũng đầu tư sản xuất nhiều sản phẩm dinh dưỡng, chăm sóc sức khỏe người cao tuổi, như sữa toàn diện Vinamilk Sure Prevent, sữa dành cho người tiểu đường Vinamilk Diecerna, Vinamilk CanxiPro, Vinamilk giảm cân, sữa bột nguyên kem có đường Vinamilk dinh dưỡng. Ngoài ra còn có sữa đậu nành bổ sung canxi và vitamin. Công ty Nutifood có sữa dành cho người cao tuổi mới ốm dậy, người bị tiểu đường, loãng xương...
Trong lĩnh vực thực phẩm, gần như chỉ có mỗi Công ty Sài Gòn Food sản xuất mặt hàng này. Tuy nhiên, sản phẩm mới chỉ dừng ở 5 loại lẩu và cháo với các hương vị như cháo gà ác, cháo ngũ đậu, cháo hạt sen, lẩu gà ác... Bà Lê Thị Thanh Lâm, Phó tổng giám đốc Công ty Sài Gòn Food, công nhận rằng, hiện nay, có rất ít những sản phẩm chuyên biệt dành cho người cao tuổi.
Ở nước ngoài, đặc biệt là tại Nhật, người cao tuổi có mặt khắp mọi nơi, từ tàu điện ngầm, siêu thị... và trên các kênh truyền hình, phim ảnh và sản phẩm của người cao tuổi rất nhiều. Trong khi đó, ở Việt Nam, người cao tuổi không được dùng sản phẩm theo ý mình mà đa phần là con cháu mua cho.
Vì thế, dù đã đầu tư sản xuất nhưng "Công ty vẫn chưa dám đưa dấu hiệu nhận biết sản phẩm trên bao bì. Vì nếu ghi đây là sản phẩm dành cho người cao tuổi thì vô hình trung tự hạn chế đối tượng người dùng, những người trẻ sẽ không mua sản phẩm", bà Lâm nói.
Bà Nguyễn Thị Thu Phương, Tổng giám đốc Công ty CP Nam Dương, cho biết, hiện nay, tỷ lệ người dùng sữa của người cao tuổi ở Việt Nam rất thấp. Đối với các nước đã phát triển (khu vực châu Âu, Mỹ...), trung bình mỗi người tiêu thụ 253 kg sữa/năm; các nước Đông Nam Á (như Thái Lan chẳng hạn) là 139 kg/người/năm, trong khi người Việt Nam mới chỉ sử dụng khoảng 25 kg/năm.
Điều này cho thấy tiềm năng thị trường còn rất lớn. Nghiên cứu rất kỹ về thị trường nên cuối năm 2012, Nam Dương đã đưa sản phẩm Majesty XO của Công ty Nam Yang (Hàn Quốc) vào Việt Nam. Sản phẩm là dưỡng chất thiết yếu cho cơ thể vì được sản xuất từ sữa nguyên chất tách béo.
Bắt đầu cạnh tranh
Theo bà Thu Phương, giai đoạn trước, Việt Nam được đánh giá là "dân số vàng" nhưng giai đoạn hiện tại tỷ lệ già hóa đã bắt đầu tăng cao. Giờ đây, cùng với kinh tế và dân trí tăng lên, người dân đã nhận thấy sức khỏe là tài sản quý giá của con người. Vì thế, việc tiêu dùng những sản phẩm dinh dưỡng dành cho người cao tuổi bắt đầu tăng.
Thực tế, tuy mới tham gia thị trường chưa lâu nhưng Majesty XO đã đạt tốc độ tăng trưởng rất tốt. Hiện sản phẩm đã có mặt tại hơn 10.000 cửa hàng bán lẻ trên toàn quốc với cơ chế chính sách giá ổn định, phù hợp. Tuy nhiên, "tốc độ tăng trưởng của giai đoạn đầu chưa nói lên gì nhiều mà vẫn cần củng cố hệ thống và đạt được độ phủ tốt hơn nữa ở các tỉnh-thành để người tiêu dùng được tiếp cận với những sản phẩm tốt nhất", bà Thu Phương nói.
Thị trường tiềm năng nên hầu hết các doanh nghiệp tham gia đều đang tìm mọi biện pháp để khai thác. Trong nhóm mặt hàng sữa, ba nhãn sữa Anlene, Majesty XO và Vinamilk đang đẩy mạnh đầu tư, quảng bá để chiếm lĩnh thị trường. Quảng bá mạnh nhất hiện nay có lẽ thuộc về nhãn hàng Anlene.
Trên các kênh truyền hình, hình ảnh diễn viên Dương Tử Quỳnh mạnh mẽ, khỏe khoắn - đại diện cho nhãn hàng Anlene liên tục xuất hiện. Không "dội bom" quảng cáo như Anlene nhưng Majesty XO chọn hoa hậu Ngô Phương Lan đồng hành trong các chương trình từ thiện, cổ vũ cho việc giữ gìn sức khỏe, tập thể dục đều đặn và ăn uống khoa học mỗi ngày.
Bà Thu Phương cho biết, trong năm 2014 này, 5 chương trình từ thiện xã hội sẽ được Nam Dương triển khai trên toàn quốc có sự xuất hiện của Ngô Phương Lan. Mới đây nhất, vào giữa tháng 4, Công ty Nam Dương đã tổ chức chương trình đi bộ từ thiện hướng đến người khuyết tật với sự tham gia của hơn 12.000 người. Sau chương trình, đã có hơn 10 tỷ đồng gửi đến người khuyết tật trên cả nước.
Cũng chọn cách quảng bá trực tiếp như Majesty XO, Công ty Vinamilk bên cạnh việc giới thiệu sản phẩm mới đã tổ chức các buổi hội thảo chuyên đề về sức khỏe dinh dưỡng cho người cao tuổi để thâm nhập sâu vào thị trường. Từ đầu năm đến nay, hàng loạt chương trình tư vấn dinh dưỡng cho người lớn tuổi được Vinamilk triển khai.
Theo đại diện của Vinamilk, Công ty sẽ tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động truyền thông với sự chia sẻ của các chuyên gia dinh dưỡng nhằm giúp người tiêu dùng nhận thức đúng về sức khỏe dinh dưỡng của người lớn tuổi để có chế độ chăm sóc tốt nhất.
Trong khi đó, tuy sản phẩm không cạnh tranh trực tiếp với Vinamilk, Nam Dương, Fonterra Brand Việt Nam nhưng Sài Gòn Food cũng tăng cường tuyên truyền giới thiệu sản phẩm mới dành cho người cao tuổi. Song song đó, Công ty đẩy mạnh sản xuất và lên kế hoạch phát triển nhiều hơn nữa nhóm sản phẩm này. Tuy nhiên, "Công ty sẽ chỉ có thể để dấu hiệu nhận biết sản phẩm chuyên biệt dành cho người già khi thị trường đủ mạnh", bà Thanh Lâm cho biết.

Mới đắt hàng, cũ đìu hiu của thị trường ô tô

Theo một số nhân viên bán xe, nếu xe mới có nguồn hàng dồi dào, không cần phải thẩm định chất lượng, giá cả, dịch vụ sau bán hàng cũng tốt thì hạn chế của xe cũ là được bày bán trong những cửa hàng dựng tạm bợ, việc thẩm định chất lượng, giá cả rất khó khăn nên khách hàng ngần ngại không dám mua.
Trong khi thị trường ô tô mới tăng trưởng đều đặn thì ngược lại, mảng ô tô cũ vẫn trong tình trạng đìu hiu kéo dài, nhiều người bán, ít kẻ mua.
Xe cũ bầy bán tràn vỉa hè
Xe nhiều mà không bóng người mua. Ảnh: VEF
Tại các trung tâm mua bán xe cũ trên đường Lê Văn Lương, Nguyễn Văn Cừ, Phạm Hùng, Khuất Duy Tiến... (Hà Nội), xe cũ bày nhan nhản.
Mặc dù các cửa hàng trên đường Phạm Hùng được dựng lên khá tạm bợ với mái tôn và khung sắt, thậm chí chẳng có mái, căng tạm tấm lưới cho đỡ bụi, vậy nhưng lượng xe đổ về ngày càng nhiều, bày tràn lan ra tận vỉa hè.
Xe bày bán đủ loại, rẻ có Kia Morning, sang trọng có Mercedes, BMW, Porsche, Land Rover...
Chủ một cửa hàng xe trên đường Phạm Hùng, anh Quang Việt cho biết, những chiếc xe này có chiếc là do anh mua lại, có chiếc là do khách hàng ký gửi. Để trong gara khó bán nên giờ anh thuê chỗ này, trưng ra cho mọi người biết.
Kinh tế khó khăn, thu nhập của nhiều gia đình bị giảm, nhiều doanh nghiệp phá sản, làm ăn thua lỗ nên đã phải đem xe đi bán để giảm chi phí, có tiền chi tiêu và lo trả nợ. Vì thế, lượng xe cũ bán ra tăng mạnh.
Anh Trần Văn Cương, giám đốc một doanh nghiệp chuyên về bất động sản có văn phòng tại đường Nguyễn Chí Thanh (Hà Nội), kể rằng Tết vừa rồi anh phải đem sổ đỏ nhà riêng thế chấp ngân hàng lấy tiền chi trả lương cho nhân viên. Nay anh bí quá, còn chiếc Innova đem bán nốt. Số tiền này đủ để duy trì sự tồn tại của doanh nghiệp, đồng thời tiết giảm được 20 triệu mỗi tháng tiền xăng xe, phí cầu đường, nơi gửi và lương lái xe.
Chiếc xe của anh Cương sản xuất năm 2010 số sàn, được định giá trên 400 triệu đồng. Xe bán được anh thấy vừa vui, vừa buồn. Không còn xe, cần đi đâu thì thuê hoặc mượn tạm bạn bè vậy, anh than thở.
Theo một chủ cửa hàng xe cũ trên đường Phạm Hùng, chưa bao giờ nguồn cung xe cũ lại dồi dào và phong phú như hiện nay. Trước đây, để tìm được nhiều xe cũ với giá phải chăng rất khó, nhiều chủ buôn phải mò về, xây dựng mạng lưới tại các tỉnh để thu gom chuyển về Hà Nội bán. Song, gần đây xe cũ bán ra rất nhiều, không chỉ tại Hà Nội mà khắp các tỉnh đổ về.
Không những xe nhiều mà giá cũng rất hợp lý. Nhiều chủ xe, vì muốn bán nhanh nên sẵn sàng chấp nhận giảm giá. Chỉ cần có 500- 600 triệu đồng, khách hàng đã có thể mua được chiếc Altis hoặc Civic chất lượng còn khá tốt.
Cả tháng chẳng có khách hỏi
Xe hạng sang cũng ra vỉa hè
Tuy nhiên, thời điểm hiện tại khách hàng tìm đến mua xe cũ không nhiều. Dạo quanh các cửa hàng bán xe cũ tại đường Phạm Hùng, cả buổi chiều cuối tuần mà chỉ có 6 khách hàng đi tìm mua xe. Quang cảnh vắng vẻ, nhân viên ngồi chơi là hình ảnh dễ nhận thấy ở các cửa hàng xe cũ thời gian này.
Tổng giám đốc một công ty chuyên kinh doanh xe cũ cho biết, sức mua xe cũ rất thấp. Doanh nghiệp của ông có văn phòng tại Hà Nội và TP.HCM nhưng mỗi tháng cũng chỉ bán được từ 50-70 xe.
Với việc đầu tư nhiều cho công đoạn thẩm định chất lượng, giá cả, có xác nhận, đảm bảo của công ty từ lâu nay, nhưng số xe bán được như vậy không được như ông Tuấn như mong đợi.
Theo một số nhân viên bán xe, nếu xe mới có nguồn hàng dồi dào, không cần phải thẩm định chất lượng, giá cả, dịch vụ sau bán hàng cũng tốt thì hạn chế của xe cũ là được bày bán trong những cửa hàng dựng tạm bợ, việc thẩm định chất lượng, giá cả rất khó khăn nên khách hàng ngần ngại không dám mua.
Nguồn xe phong phú nhưng vẫn không thể bằng xe mới. Chẳng hạn, với xe mới khách hàng có thể chọn được màu xe ưng ý thì xe cũ là không thể. Tuy nhiên, lý do quan trọng khiến xe cũ khó bán là do kinh tế khó khăn, nhiều gia đình thắt chặt chi tiêu, nhiều doanh nghiệp thua lỗ phá sản nên không có nhu cầu về xe.
Mua xe cũ phần lớn là những người có thu nhập không cao. Suy thoái kinh tế, thu nhập giảm khiến nhu cầu về ô tô bị gạt sang một bên, ông Tuấn nhận xét.
Nhiều chủ cửa hàng than thở, lúc xe nhiều và giá rẻ thì chẳng có ai mua. Sức mua xe cũ hiện chỉ bằng 30-40% so với thời điểm cận Tết, xe để cả tháng cũng không khách hỏi đến.

Chia sẻ cùng bạn vấn đề thị trường thức ăn chăn nuôi: "Gà nội ăn bắp Mỹ”

Đến tháng 11/2012, Công ty tiếp tục xây nhà máy thứ hai và tháng 4/2014 đưa vào vận hành nhà máy thứ ba. Ngay khi đi vào hoat động, nhà máy mới đã đạt 70% công suất. Hiện nay tại thị trường phía Bắc, Gold Coin đang chiếm khoảng 6% thị phần và hy vọng năm tới sẽ tăng lên 8%. Gold Coin cũng muốn Việt Nam thành thị trường hàng đầu trong khu vực. Bởi mới vào Việt Nam 10 năm nhưng Gold Coin Việt Nam đã có tốc độ phát triển sát nút với Gold Coin Malaysia.

Thị trường 4 tỷ USD
Tháng 4, Tập đoàn Gold Coin của Hoa Kỳ khánh thành nhà máy TACN Gold Coin Hải Dương với vốn đầu tư hơn 260 tỷ đồng, công suất 300.000 tấn/năm.
Sau đó một tháng, Công ty TACN Cargill Feed & Nutrition (CFN) (Mỹ) cũng khánh thành dự án 20 triệu USD mở rộng nhà máy tại Bình Định, một trong 8 nhà máy của Cargill tại Việt Nam, với công suất gấp bốn lần, từ 60.000 tấn/năm lên 240.000 tấn/năm, nâng tổng vốn đầu tư của Cargill tại Việt Nam trong 10 năm qua hơn 110 triệu USD.
Ông Joe Stone, Giám đốc Kinh doanh toàn cầu của CFN, cho biết, với việc mở rộng nhà máy này, tổng công suất trên toàn hệ thống của Cargill sẽ là 1,4 triệu tấn/năm tại Việt Nam.
Các công ty này liên tục nâng công suất là nhằm đáp ứng nhu cầu thị trường rất lớn của Việt Nam. Tính cả kim ngạch nhập khẩu TACN và các loại nguyên liệu như đậu nành, bắp, lúa mì... trong năm 2013, Việt Nam đã nhập hơn 4 tỷ USD. Sức hấp dẫn của thị trường này thu hút Công ty TNHH Tongwei (Trung Quốc) đầu tư xây dựng nhà máy sản xuất TACN tại Khu công nghiệp tỉnh Hòa Bình.
Nhà máy có tổng mức đầu tư 10 triệu USD, trên diện tích 22.345m2 tại KCN Lương Sơn với công suất 200.000 tấn/năm, trong đó 150.000 tấn thức ăn cho lợn, 30.000 tấn thức ăn cho gà, 20.000 tấn thức ăn cho vịt. Nhà đầu tư Trung Quốc đặt mục tiêu đưa dự án vào hoạt động trong tháng 10-11/2015 và tháng 12/2015 bắt đầu sản xuất thương mại.
Cargill đang nắm khoảng 7 - 8% thị phần TACN tại Việt Nam cùng khoảng đầu tư 2 triệu USD để cập nhật công nghệ sản xuất mới. Trước tình hình đầu ra thị trường liên tục lên xuống, các thương hiệu TACN lớn đã thay đổi các hình thức bán hàng. Chẳng hạn, ngoài 95% kênh bán hàng thông qua đại lý, Cargill đang đẩy mạnh bán hàng trực tiếp cho các trang trại.
Ông David Glasson, Giám đốc điều hành Gold Coin, cho rằng: "Mặc dù tốc độ tăng trưởng của Việt Nam có thể sẽ giảm trong vài năm tới nhưng Gold Coin vẫn kỳ vọng sẽ tiếp tục hoạt động tốt tại Việt Nam do nhu cầu ngày càng tăng của thị trường". Năm 2012, Gold Coin đã tăng công suất nhà máy lên 50% nhưng vẫn không đủ nhu cầu thị trường.
Đến tháng 11/2012, Công ty tiếp tục xây nhà máy thứ hai và tháng 4/2014 đưa vào vận hành nhà máy thứ ba. Ngay khi đi vào hoat động, nhà máy mới đã đạt 70% công suất. Hiện nay tại thị trường phía Bắc, Gold Coin đang chiếm khoảng 6% thị phần và hy vọng năm tới sẽ tăng lên 8%. Gold Coin cũng muốn Việt Nam thành thị trường hàng đầu trong khu vực. Bởi mới vào Việt Nam 10 năm nhưng Gold Coin Việt Nam đã có tốc độ phát triển sát nút với Gold Coin Malaysia.
Không thể cạnh tranh
Thị trường TACN giàu tiềm năng với tăng trưởng trung bình hằng năm từ 13 - 15% nhưng khoảng 56% thị phần đang nằm trong tay các công ty có vốn đầu tư nước ngoài. Theo ông Lê Bá Lịch, Chủ tịch Hiệp hội TACN, đứng trước sức ép cạnh tranh, các DN nội địa đang rất khó khăn và nhiều DN đã bị phá sản.
Hiện cả nước có 234 DN TACN, trong đó chỉ còn 194 cơ sở, DN đang hoạt động, có 40 nhà máy chủ yếu vốn trong nước đã ngừng sản xuất, hoặc chuyển hướng kinh doanh.
Chẳng hạn, theo báo cáo kinh doanh của Công ty cổ phần TACN Việt Thắng, doanh thu thuần quý I/2014 đạt 799,11 tỷ đồng, giảm 257 tỷ đồng so với cùng kỳ năm 2013. Nguyên nhân do giá cá tra giảm trong thời gian dài, người nuôi không có lãi nên đã giảm sản lượng nuôi, dẫn đến sản lượng tiêu thụ thức ăn giảm.
Việc khó cạnh tranh của DN TACN nội, theo các DN là do giá nguyên liệu và chi phí đầu vào cao, trong khi vốn lưu động không nhiều, chính sách bán hàng ít linh hoạt như các công ty nước ngoài. Nếu như các DN FDI chi rất nhiều "hoa hồng" cho đại lý, có cơ chế thưởng theo doanh số, cho nông dân mua chịu... thì DN nội chỉ có thể chi một phần rất nhỏ nên không thể cạnh tranh được.
Mặt khác, theo ông Phạm Đức Bình, Phó chủ tịch Hiệp hội TACN Việt Nam, 100% bắp nhập về dùng cho sản xuất TACN, đậu nành hạt nhập về để ép lấy dầu, còn 80% bã dùng cho chăn nuôi. Riêng với lúa mì, khoảng 20% sản lượng lúa mì nhập khẩu phục vụ ngành chăn nuôi. Việt Nam chỉ chủ động được nguồn cám gạo, khoai mì, còn lại phụ thuộc vào nhập khẩu.
Bên cạnh đó, theo phân tích của ông David Glasson thì: "Có ba lý do khiến các DN Việt Nam chưa thực sự mạnh trên thị trường TACN là do vốn mỏng, thứ hai là do yếu và thiếu về công nghệ, thứ ba là trình độ quản lý còn nhiều hạn chế. Nếu thay đổi cách làm, DN nội địa vẫn có thể nắm thị trường".
Tuy nhiên, phân tích thêm về khó khăn trong việc nhập nguyên liệu, giám đốc một công ty sản xuất TANC Việt Nam cho biết, ngay cả các công ty nước ngoài thì vấn đề nguyên liệu cũng đang khó khăn. Như Cargill vẫn phải nhập đậu nành và bắp, Gold Coin phải nhập 40% nguyên liệu từ nước ngoài, trong đó có một số nguyên liệu phải nhập 100% như khô đậu nành và bắp... nhưng DN nước ngoài có lợi thế được vay bằng ngoại tệ, vay vốn không phải thế chấp, chưa kể còn được công ty mẹ hỗ trợ về việc mua nguyên liệu giá thấp và được trả chậm..., trong khi DN trong nước vẫn phải vay với lãi suất cao.

Khám phá vấn đề vận tải biển: Nửa chìm, nửa nổi

Nhờ đó, trong quý I/2014, giá vốn hàng bán của VOS đã giảm 55 tỷ đồng so với cùng kỳ. Và cũng như các công ty khác, VOS đẩy mạnh bán tàu. Sau khi bán 4 tàu Golden Star, Morning Star, Polar Star và Ocean Star vào năm 2013, VOS dự kiến bán tiếp 2 tàu Vĩnh Phước và Diamond trong năm nay. Nếu tình hình quá khó khăn, công ty sẽ bán thêm tàu Silver Star và xem xét đến việc chuyển nhượng một số bất động sản sử dụng không hiệu quả tại một số chi nhánh.
Những đội tàu thua lỗ
Theo báo cáo từ Hiệp Hội Chủ tàu Việt Nam, tính đến cuối năm 2013, đội tàu vận tải biển Việt Nam có 1.788 tàu các loại, với tổng dung tích 4,3 triệu GT và tổng trọng tải khoảng 6,9 triệu DWT, đứng thứ 5/10 nước ASEAN. Việt Nam còn sở hữu 80 tàu mang cờ nước ngoài với tổng trọng tải 1,1 triệu DWT.
Tuy nhiên, đa số tàu Việt Nam đều có trọng tải thấp, trung bình chỉ 3.960 DWT/tàu. Tính ra, số lượng tàu có trọng tải dưới 5 vạn DWT chiếm tới 80% tổng tàu, tàu trên 15 vạn DWT chỉ có 2 tàu, chiếm 3,3%. Đặc biệt, trong khoảng 600 chủ tàu thì chỉ 33 chủ tàu sở hữu đội tàu có tổng trọng tải trên 10.000 DWT.
Vì thế, đặc điểm của đội tàu Việt Nam là dư thừa tàu trọng tải nhỏ, tàu chở hàng tổng hợp trong khi thiếu trầm trọng các tàu có trọng tải lớn, chạy tuyến quốc tế và các tàu chuyên dụng (chở xi măng rời, hóa chất, khí hóa lỏng..). Với cơ cấu đội tàu như vậy, theo thống kê của Cục Hàng hải Việt Nam, đội tàu Việt Nam chỉ đảm nhận được khoảng 10-12% thị phần vận tải hàng hóa xuất nhập khẩu, giảm mạnh so với mức 33% của năm 2007 và chủ yếu vận chuyển hàng sang các nước Đông Nam Á, châu Á. Gần như 100% lượng hàng hóa từ Việt Nam đi châu Âu, châu Mỹ đều do các hãng tàu nước ngoài đảm trách.
Hiện có khoảng 40 hãng tàu nước ngoài hoạt động tại Việt Nam. Trong đó có những thương hiệu nổi tiếng thế giới như: Maerk lines, hãng NYK line, hãng CMA CGM, MSC... Các hãng tàu này đảm nhận gần 90% thị phần chuyên chở hàng hóa xuất nhập khẩu tại Việt Nam.
Một số hãng tàu biển nước ngoài còn tìm cách liên minh, tạo thành tập đoàn lớn mạnh trong khai thác vận tải như Liên minh CKYH gồm các hãng tàu K-Line, COSCO, Hanjin Shipping, Yang Ming Line, Liên minh P3 gồm các hãng tàu Maersk Lines, MSC lines và CMA CGM... Với uy thế thương hiệu mạnh, tiềm lực tài chính hùng hậu, mạng lưới logistics kết nối toàn cầu và đội tàu trọng tải lớn, hiện đại, các hãng tàu nước ngoài nắm quyền thống trị trên thị trường vận tải biển Việt Nam.
Không chỉ lao đao vì mất dần thị phần vào tay các hãng tàu ngoại, trong giải trình của mình, theo ông Vương Ngọc Sơn, Tổng giám đốc Công ty Vận tải biển Vinaship (VNA), doanh thu năm 2013 của VNA đã tuột về mức thấp nhất trong vòng 3 năm qua do hàng hóa khan hiếm, mặt bằng giá cước thấp trong khi giá nhiên liệu luôn ở mức cao.
Theo báo cáo thường niên của VNA, gạo xuất khẩu từ Việt Nam đi một số thị trường truyền thống như Philippines, Malaysia, Indonesia trong năm 2013 hầu như rất ít. Trong khi đó, theo ông Sơn, giá cho thuê tàu của VNA đã giảm mạnh, từ 8.000 USD/ngày của năm 2012 xuống 5.500 USD/ngày trong năm 2013. Bên cạnh đó, khả năng tiếp nhận hàng của VNA bị hạn chế, thời tiết xấu đã làm gia tăng thời gian tàu chờ đợi, gây phát sinh nhiều chi phí.
Hiện tại, dù VNA vẫn bố trí một số tàu cho thuê định hạn (tàu Vinaship Ocean, Vinaship Diamond, Vinaship Sea, Vinaship Pearl, Vinaship Star) nhưng theo ông Sơn, chỉ riêng chi phí nhiên liệu tiêu thụ bình quân toàn bộ đội tàu đã chiếm trên 35% doanh thu vận tải (ở các công ty khác trung bình là 40-50%).
Cộng thêm yếu tố tàu già, tàu trọng tải nhỏ và vay vốn đầu tư trước kia càng làm phát sinh chi phí như chi phí bảo hiểm, sửa chữa, quản lý, khấu hao, trả nợ và lãi vay... Kết quả, VNA lỗ 107 tỷ đồng trong năm 2013 và là năm thứ 2 liên tiếp thua lỗ.
Tuy nhiên, VNA không phải là công ty đơn độc thua lỗ. Nhìn trong danh sách các doanh nghiệp vận tải biển niêm yết trên sàn chứng khoán thì đa số đều thua lỗ và thua lỗ triền miên.
Ngoài những lý do thua lỗ như đã đề cập, theo phân tích từ Phòng Vận tải và Dịch vụ Hàng hải, Cục Hàng hải Việt Nam thì các công ty vận tải biển kinh doanh kém còn vì cơ cấu đội tàu không phù hợp, tình trạng kỹ thuật yếu kém, tàu bị lưu giữ nhiều ở nước ngoài; việc tổ chức quản lý, cung ứng dịch vụ của doanh nghiệp Việt Nam còn yếu, thiếu sự liên kết giữa các hãng tàu - chủ hàng - thương mại - bảo hiểm; nguồn tài chính khó khăn; nguồn nhân lực yếu và thiếu; tập quán mua CIF bán FOB (mua tại cảng đến bán tại cảng đi) đã làm mất cơ hội thuê tàu biển.
Bán tàu cắt lỗ
Đội tàu Việt Nam khá già cỗi, chỉ thua Singapore trong khối ASEAN với tuổi tàu trung bình khoảng 13 năm. Thậm chí, 5/13 tàu của VNA có tuổi từ 25 năm trở lên.
Công ty Viễn Dương thuộc Vinashin mua 10 tàu vận tải biển (giai đoạn 2006-2007) thì tất cả đều trên 15 năm. Vinalines đầu tư 73 tàu thì 17/73 tàu (chiếm 23,3%) quá tuổi quy định, không được phép đăng ký tại Việt Nam. Vì thế, các tàu của Việt Nam vốn yếu thế trong cạnh tranh với tàu ngoại lại càng thêm "khó ngóc đầu dậy". Bán tàu cũ kỹ, kém hiệu quả là một trong những giải pháp được hầu hết các doanh nghiệp vận tải biển áp dụng để giảm lỗ.
Tuy nhiên, dù đều có kế hoạch bán tàu thì trong năm 2013, nhiều doanh nghiệp như VNA, Vận tải Hải Âu (SSG) đều không bán được tàu như ý muốn. Theo lý giải từ VNA, giá sắt vụn, giá tàu phải bán xuống mức thấp nhất trong năm 2013 và nhiều đơn vị mua bán tàu gặp khó khăn về vốn.
Sang năm 2014, ban lãnh đạo VNA tiếp tục lên kế hoạch bán 1-2 tàu (Hà Nam, Hà Tiên). Riêng SSG đã thanh lý được tàu Northern Star và thu về lợi nhuận 9,5 tỷ đồng trong đầu năm 2014. Đội tàu của SSG chỉ còn lại Sea Dragon và Sea Dream. Toàn bộ số tiền bán tàu đều dùng trả nợ gốc và lãi vay mua Sea Dragon.
Ông Nguyễn Hữu Huân, Tổng giám đốc SSG thừa nhận trước cổ đông, vốn lưu động của SSG hiện gặp nhiều khó khăn. Trong năm 2014, ông Huân kỳ vọng thị trường vận tải biển phục hồi để SSG cân đối được thu chi. Công ty dự kiến sẽ tiếp tục cho thuê cả 2 tàu theo hình thức cho thuê định hạn để giảm chi phí trả tiền dầu. Kế hoạch của SSG năm 2014 là phấn đấu lãi sau thuế (LNST) 857 triệu đồng.
Không lạc quan như SSG, lãnh đạo Công ty CP Vận tải và Thuê tàu biển Việt Nam (VST) đề ra kế hoạch bớt lỗ chứ không hy vọng thoát lỗ. Cụ thể, VST dự kiến lỗ 179,12 tỷ đồng năm 2014, giảm so với mức âm 223,65 tỷ đồng của năm 2013. Trong năm 2014, VST tiếp tục lên kế hoạch bán tàu. Ngoài tàu Viễn Đông 3 đã được lên kế hoạch bán từ năm 2013, VST sẽ bán thêm tàu VTC Sky. Nếu bán được cả 2 tàu này, VST sẽ cắt bớt lỗ, khoảng 17 tỷ đồng.
Bán tàu đã giúp các công ty thêm nguồn tiền trang trải nợ nần. Năm 2013, nợ phải trả của VST chiếm 88,64% tổng tài sản và cao hơn rất nhiều lần so với vốn chủ sở hữu. Vì thế, với các doanh nghiệp, giảm được nợ vay, dù chỉ ở mức 2,4% như VST đã làm trong năm 2013 thì đã là kết quả đáng mừng.
Mức lãi vay mà các công ty vận tải biển phải chịu hiện khoảng 13-15%/năm, cao hơn con số 8-9%/năm đang áp dụng cho những ngành nghề khác. Theo một giám đốc công ty vận tải biển, do các khoản nợ này là nợ vay từ trước, ở diện nợ quá hạn, nợ xấu nên các ngân hàng vẫn áp dụng lãi cao.
Thương lượng với các ngân hàng để khoanh, giãn nợ, giảm bớt áp lực lãi vay được xem là một trong những nhiệm vụ quan trọng của các công ty vận tải biển. Đơn cử, VST đã được phép giãn nợ và phân bổ trả nợ từ năm 2016 trở đi.
Tình hình hoạt động ở một số doanh nghiệp vận tải biển
Trước mắt, các công ty tiếp tục rà soát, tìm cách giảm các chi phí để hạn chế thua lỗ. Từ 9/2012, VOS đã tiến hành giảm lương trong toàn công ty, cấp lãnh đạo giảm 10%, cấp quản lý giảm 7%, cán bộ, nhân viên giảm 5%. Ngoài ra, VOS tìm cách cho thuê tàu định hạn để không bị rủi ro chi phí nhiên liệu.
Nhờ đó, trong quý I/2014, giá vốn hàng bán của VOS đã giảm 55 tỷ đồng so với cùng kỳ. Và cũng như các công ty khác, VOS đẩy mạnh bán tàu. Sau khi bán 4 tàu Golden Star, Morning Star, Polar Star và Ocean Star vào năm 2013, VOS dự kiến bán tiếp 2 tàu Vĩnh Phước và Diamond trong năm nay. Nếu tình hình quá khó khăn, công ty sẽ bán thêm tàu Silver Star và xem xét đến việc chuyển nhượng một số bất động sản sử dụng không hiệu quả tại một số chi nhánh.
Những gì có thể chuyển hóa được thành tiền để có thêm nguồn trang trải nợ nần và chi phí đều được các công ty "đụng đến". Chính vì thế, đã có ý kiến quan ngại, các công ty sẽ tiếp tục hoạt động ra sao một khi bán đi tài sản? Phía trong cuộc cho rằng, đa phần tàu bán đi đều là những tài sản đã hết hạn khấu hao, chuẩn bị lên đà sửa chữa lớn. Đây cũng là những tàu có mức tiêu thụ nhiên liệu cao và gặp hạn chế trong khai thác. Bán đi các tàu này tuy trước mắt có thể làm giảm năng lực vận tải nhưng sẽ giúp doanh nghiệp "nhẹ gánh" và thoát lỗ sớm hơn.
Báo cáo của hầu hết các công ty vận tải biển đều khẳng định, từ sau năm 2015, các công ty sẽ tiến hành cơ cấu lại đội tàu theo hướng trẻ hóa, tăng trọng tải và đa dạng các loại tàu. Đơn cử, cùng với liên tục bán tàu, VOS đặt mục tiêu đến năm 2020 sẽ nâng số lượng tàu từ 22 chiếc (năm 2013) lên 31 tàu với tổng trọng tải trên 1 triệu DWT, bao gồm tàu hàng khô, hàng rời chuyên dụng, tàu dầu, tàu chở khí, hóa chất, tàu chở dầu thô, tàu container...
Ngoài ra, nhiều đơn vj đang tìm cách chuyển hướng và mở rộng kinh doanh. Công ty Hàng hải Hà Nội (MHC) đã thành công khi chuyển hướng tập trung vào đầu tư kinh doanh tài chính.
Trong cuộc họp đại hội đồng cổ đông vừa qua, ông Nguyễn Quang Dũng, Tổng giám đốc MHC xác nhận, tăng trưởng lợi nhuận năm 2013 gấp 3 lần năm 2012 chủ yếu nhờ đầu tư vào cảng Hải An. Sang năm 2014, MHC tiếp tục duy trì các khoản đầu tư hiệu quả cũng như tìm kiếm đầu tư vào những công ty có liên quan đến ngành nghề của MHC nhưng tăng trưởng tốt.
Tìm cửa thoát hiểm
Những trường hợp xoay chuyển kịp thời và hiệu quả như MHC được giới phân tích nhìn nhận chỉ là số ít. Các công ty vận tải biển, nhất là công ty vận tải hàng khô vẫn đang ngụp lặn trong thua lỗ và hy vọng vào những tín hiệu lạc quan trên thị trường để thoát lầy.
Tuy nhiên, theo các nghiên cứu và dự báo của Vinalines, trong giai đoạn 2014 - 2015, ngành vận tải biển thế giới vẫn sẽ tiếp tục dư thừa cung trọng tải trong khi giá cước thấp hơn giai đoạn 2008 tới gần 3 lần và chi phí vận hành vẫn sẽ gia tăng. Chi tiết hơn, ông Nguyễn Văn Quỳnh, Chủ tịch Hiệp hội Chủ tàu Việt Nam nhận định, dù thị trường năm 2014 sẽ ít nhiều có sự cải thiện nhưng mức độ cải thiện chỉ tập trung ở phân khúc tàu lớn, phân khúc tàu trọng tải nhỏ chưa có nhiều tín hiệu sáng sủa.
Nhiều công ty vận tải biển trông chờ vào những hỗ trợ từ Nhà nước. Bằng chứng thời gian qua, một số đơn vị tiến hành khoanh giãn được nợ là nhờ có sự lên "lên tiếng" của Chính phủ. Trước đó, từ 1/4/2013, với chính sách dừng cấp phép vận tải container tuyến nội địa cho tàu ngoại, thị phần vận tải container nội địa của đội tàu biển Việt Nam đã tăng nhanh chóng, từ mức 58% (2010) tăng lên 80% (2013).
Nếu tính cả đội tàu mang cờ nước ngoài thuộc sở hữu Việt Nam thì con số này là 90-95%. Theo thống kê chung, năm 2013, các hãng tàu container trong nước đều kinh doanh hiệu quả, tăng 10% so với 2012.
Để giảm chi phí vận tải biển, tăng thị phần vận tải của doanh nghiệp vận tải biển Việt Nam, Cục Hàng hải Việt Nam đã kiến nghị Nhà nước nên có chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp vận tải biển được mua nhiêu liệu với mức giá ưu đãi tại Nhà máy Lọc dầu Dung Quất, miễn thuế thu nhập cá nhân cho sỹ quan, thuyền viên.
Giảm thuế đối với hàng hóa là vật tư, thiết bị phục vụ cho sửa chữa, bão dưỡng tàu biển. Áp mức thuế suất thuế giá trị gia tăng 5% trong vòng 3 năm cho vận tải nội địa của tàu mang cờ Việt Nam, được vay ưu đãi khi đầu tư tàu biển tham gia vận tải hàng hóa xuất nhập khẩu...
Đề án cũng đề xuất giải pháp quy hoạch-đầu tư đồng bộ hệ thống cảng biển, di dời các cảng biển nằm sâu trong sông để giảm chi phí hoa tiêu và luồng lạch. Đầu tư nâng cấp trang thiết bị, công nghệ bốc dỡ, nâng cao năng lực bốc dỡ để giảm thời gian quay vòng của tàu và tiết kiệm chi phí lưu kho bãi, cảng phí. Áp dụng công nghệ thông tin trong trao đổi dữ liệu để giảm chi phí thủ tục giấy tờ , tiết kiệm thời gian...
Tuy nhiên, theo hầu hết chuyên gia, với năng lực cạnh tranh hiện quá thua xa các đơn vị vận tải biển trong khu vực và thế giới, với thực trạng nhiều công ty đã đầu tư tàu quá nhiều, quá nóng vội nhưng lại không nhạy bén để tái cơ cấu, dù được hỗ trợ về chính sách như đề xuất thì không phải công ty vận tải biển nào cũng thoát được thế bế tắc.

Tìm hiểu về hàng hiệu phớt lờ suy thoái

Không chỉ có IPP tăng trưởng ổn định mà các công ty kinh doanh thời trang khác như Bốn Mùa, Mai Sơn... đều tăng trưởng hai con số. Các thương hiệu như Aldo, Charles & Keith, Mango... đều có doanh thu tăng từ 10 - 20% so với năm 2012. Theo ông Minh, hiện nay, lợi nhuận của Luala chủ yếu đến từ việc phân phối các thương hiệu lớn vốn đã rất quen thuộc với khách hàng trong nước như Dolce&Gabbana, Escada, Canali. Các thương hiệu Elie Saab, Oscar de la Renta có giá rất cao nhưng vẫn có một số khách hàng trung thành.
Tăng trưởng đều
Tháng 3/2014, Công ty Thời trang Luala đã chính thức có mặt tại TP.HCM bằng cửa hàng rộng 300m2 tại 88 Đồng Khởi, Q.1 sau 2 năm tìm hiểu thị trường. Đây là cửa hàng được ông Đỗ Ngọc Minh, Chủ tịch Công ty Thời trang Luala với một loạt thương hiệu thời trang đến từ Đức, Pháp, Ý như Escada, Dolce&Gabbana, Canili, Elie Saab, Oscar de la Renta, Milano... cùng với Iximbank mua hệ thống cửa hàng Gucci-Milano.
Sự kiện này là bàn đạp để Luala, khai thác thị trường tiêu dùng lớn của Việt Nam. Bởi theo ông Minh, thị trường thời trang hàng hiệu dù đã có nhiều thương hiệu nổi tiếng thế giới nhưng vẫn đang rất tiềm năng khi người giàu đang tăng lên.
Khảo sát của Boston Consulting Group (BCG - Mỹ) cuối năm 2013, cũng cho thấy, Việt Nam là quốc gia có tốc độ tăng trưởng tầng lớp trung lưu và giàu có cao nhất Đông Nam Á. Theo dự báo, số người giàu của Việt Nam sẽ tăng lên 33 triệu người vào năm 2020, tăng gấp đôi so với hiện nay và gần bằng 2/3 Thái Lan.
Cùng với đó, thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam cũng tăng từ 1.400 USD lên 3.400 USD/năm. "Có đến 90% người tiêu dùng Việt Nam nghĩ rằng con cháu họ có cuộc sống tốt đẹp hơn trong khi trong khi tỷ lệ này tại các nước nói trên chỉ 70%", BCG nhận định.
Ngoài số người giàu đang tăng nhanh, hiện nay, ngành du lịch phát triển cũng là cơ hội cho các doanh nghiệp kinh doanh hàng hiệu. Theo Tổng cục Thống kê, năm 2013, đã có hơn 7,5 triệu khách quốc tế đến Việt Nam. Tuy chưa phải là "kinh đô thời trang" nhưng lượng khách tăng cũng đồng nghĩa với nhu cầu tiêu dùng tăng.
Vì thế, ngoài việc nhắm tới người tiêu dùng nhiều tiền trong nước, các công ty kinh doanh thời trang hàng hiệu cũng đang nhắm đến việc khai thác khách du lịch nước ngoài. Theo bà Lê Hồng Thủy Tiên, Tổng giám đốc Công ty IPP, phân khúc khách du lịch nước ngoài chiếm tỷ lệ không nhỏ trong thị trường mua sắm hàng hiệu tại Việt Nam. Và nhờ khai thác tốt phân khúc này nên trong năm 2013, doanh thu của IPP tăng trưởng 10% so với năm trước.
Không chỉ có IPP tăng trưởng ổn định mà các công ty kinh doanh thời trang khác như Bốn Mùa, Mai Sơn... đều tăng trưởng hai con số. Các thương hiệu như Aldo, Charles & Keith, Mango... đều có doanh thu tăng từ 10 - 20% so với năm 2012. Theo ông Minh, hiện nay, lợi nhuận của Luala chủ yếu đến từ việc phân phối các thương hiệu lớn vốn đã rất quen thuộc với khách hàng trong nước như Dolce&Gabbana, Escada, Canali. Các thương hiệu Elie Saab, Oscar de la Renta có giá rất cao nhưng vẫn có một số khách hàng trung thành.
Tiếp tục làm mới
Hàng hiệu thời trang được dự báo sẽ tiếp tục tăng trưởng mạnh trong năm 2014 này. Trong một cuộc khảo sát công bố ngày 6/5 của Công ty Nielsen Việt Nam, cho thấy, có đến 31% số người được hỏi (trong số 30.000 người), cho biết đang dần "thả lỏng" việc chi tiêu sau 2 năm thắt lưng buộc bụng.
Theo họ, tình hình tài chính và khả năng mua sắm sẽ tăng mạnh trong năm nay. Thậm chí, có đến 39% số người trả lởi khảo sát đánh giá năm nay sẽ tốt hoặc rất tốt để mua sắm những thứ mình cần hoặc muốn. Đó là lý do khiến các nhà đầu tư bán lẻ lớn trên thế giới đổ vào Việt Nam.
Mới đây, vào cuối tháng 4, nhà bán lẻ hàng đầu Thái Lan là Central Group đã khai trương trung tâm mua sắm Robbins tại Hà Nội. Trung tâm này quy tụ đến 120 thương hiệu thời trang, trong đó có những thương hiệu nổi tiếng thế giới như Gucci, Ralph Lauren, CK, Diesel, Versace, Lacoste, Guess...
Kinh doanh thời trang hàng hiệu tuy nhiều cơ hội nhưng cũng cạnh tranh gay gắt. Để tăng trưởng tốt, nhà kinh doanh không thể phụ thuộc hoàn toàn vào tâm lý tiêu dùng của khách hàng mà tăng cường việc bàn hàng, hậu mãi, thậm chí là thay đổi cách kinh doanh.
Ông Minh, cho biết, thay vì tập trung vào việc mở các cửa hàng đơn thương hiệu hay phát triển các trung tâm thương mại, Luala đầu tư vào các cửa hàng đa thương hiệu như Luala và Milano. Trong đó, các thương hiệu do Luala phân phối sẽ "đứng chung" trong cùng cửa hàng. Và dù tuân thủ các quy định của chính hãng nhưng Luala cũng sáng tạo trong kinh doanh, dịch vụ, quảng bá để phù hợp với thị trường và khách hàng Việt.
Cũng theo ông Minh, kinh doanh thời trang hàng hiệu vẫn là một lĩnh vực còn gặp nhiều thách thức, như thủ tục hải quan ngặt nghèo, thuế nhập khẩu cao, khan hiếm mặt bằng... Vì thế, trong điều kiện cạnh tranh khá gay gắt, để có chỗ đứng trên thị trường, Luala đẩy mạnh phát triển các cửa hàng Luala và Milano ở Hà Nội và TP.HCM.
Song song đó, Công ty tiếp tục làm việc với các hãng để giới thiệu những thương hiệu phù hợp cho mô hình đa thương hiệu của mình. Không dừng lại ở đó, Luala còn phát triển dịch vụ may đo đồng phục theo đơn đặt hàng cho các công ty có nhu cầu và từng bước hoàn thiện kế hoạch giới thiệu thương hiệu may sẵn "Made in Vietnam" trong tương lai gần.
Trong khi đó, Công ty IPP tiếp tục mở rộng danh sách các thương hiệu thời trang phân phối tại Việt Nam. Bên cạnh việc đưa các thương hiệu này vào các trung tâm thương mại lớn, IPP còn đầu tư vào trung tâm mua sắm để chủ động hơn về mặt bằng. Bên cạnh việc kinh doanh thời trang hàng hiệu cao cấp, IPP hướng đến phát triển chuỗi cửa hàng trung cấp để mở rộng khách hàng.

Câu chuyện về Hội An chống sao chép sản phẩm du lịch

Công ty Cà phê Việt đã phải nhờ đến sự can thiệp của chính quyền thành phố Hội An. Ông Trương Văn Bay, Phó chủ tịch UBND TP. Hội An nhấn mạnh:"Một di sản văn hóa sống như Hội An rất cần những sản phẩm du lịch dựa trên nền tảng văn hóa, khơi dậy những giá trị truyền thống. Chúng tôi hoan nghênh những ý tưởng sáng tạo của các doanh nghiệp và bảo vệ họ làm ăn chân chính".
Năm 2013, hưởng ứng phong trào đầu tư sản phẩm mới cho du lịch Hội An, Công ty TNHH Quản lý và Đầu tư Cà phê Việt đã cho ra đời sản phẩm: "Chợ phiên Hội An thế kỷ XIX".
Đây là một sản phẩm văn hóa du lịch được đầu tư công phu với sự tham gia của nhiều kiến trúc sư và các chuyên gia văn hóa để có một phiên bản phục dựng phiên chợ Hội An xưa với hàng nghìn chi tiết, với ý tưởng sáng tạo kết nối các giá trị văn hóa Hội An với cuộc sống hiện đại. Với sản phẩm phiên chợ "văn hóa-du lịch" này, người nông dân ven ngoại ô Hội An có cơ hội tham gia, tạo thu nhập thêm ngoài nghề nông và sản phẩm này đã được Công ty Cà phê Việt đăng ký và đang trong quá trình chờ công nhận bản quyền sở hữu trí tuệ.
Trong lúc đó, Công ty Cà phê Việt đã chào bán sản phẩm "Phiên chợ Hội An thế kỷ XIX" với Công ty Destination Asia, một đơn vị lữ hành quốc tế có chi nhánh tại Đà Nẵng về thực hiện cho khách một đêm "Chợ phiên Hội An thế kỷ XIX", gửi bản giới thiệu (phim video, hình ảnh) về sản phẩm cho đối tác này.
Tuy nhiên, sau khi không đạt được thỏa thuận về giá, Công ty Destination Asia đã sử dụng kịch bản cùng tài liệu về sản phẩm để kết hợp với một công ty khác là Công ty TNHH Hoài Phố tổ chức sự kiện theo kịch bản "Chợ phiên Hội An thế kỷ XIX" và thu giá vé thấp hơn.
Công ty Cà phê Việt đã phải nhờ đến sự can thiệp của chính quyền thành phố Hội An. Ông Trương Văn Bay, Phó chủ tịch UBND TP. Hội An nhấn mạnh:"Một di sản văn hóa sống như Hội An rất cần những sản phẩm du lịch dựa trên nền tảng văn hóa, khơi dậy những giá trị truyền thống. Chúng tôi hoan nghênh những ý tưởng sáng tạo của các doanh nghiệp và bảo vệ họ làm ăn chân chính".
UBND TP. Hội An đã có văn bản xác nhận sự "sao chép" của Destinatina Asia, đồng thời yêu cầu Công ty TNHH Hoài Phố phải có sự hợp tác với Công ty Cà phê Việt đàm phán về bản quyền tổ chức sự kiện theo phiên bản "Phiên chợ Hội An thế kỷ XIX" theo tinh thần các doanh nghiệp cùng chính quyền bảo vệ thương hiệu du lịch Hội An, chống sao chép, ăn cắp các sản phẩm du lịch của nhau.
Đây là lần đầu tiên có một công ty du lịch mạnh dạn "kêu cứu" vì bị "mất cắp bản quyền sáng tạo trí tuệ” trong kinh doanh du lịch. Tình trạng này đang xảy ra phổ biến trong ngành du lịch, với những sản phẩm du lịch thiếu sáng tạo hoặc bị sao chép na ná lẫn nhau, cạnh tranh giá, dẫn đến có chất lượng thấp, khiến các công ty du lịch trong nước bị mất lợi thế cạnh tranh trước các công ty lữ hành quốc tế.
Việc chính quyền Hội An chống "sao chép" sản phẩm du lịch, Công ty Cà phê Việt bảo vệ được quyền lợi hợp pháp của mình là "\tiếng chuông cảnh tỉnh các doanh nghiệp đừng tự hại mình bằng lối kinh doanh "ăn xổi" khiến ngành du lịch Việt Nam sau nhiều năm vẫn không thể đuổi kịp các nước láng giềng!

Chia sẻ cùng bạn: Nở rộ ứng dụng dịch vụ taxi

Đặc biệt, khi mỗi khách hàng sử dụng dịch vụ, tài xế taxi sẽ được tặng thêm tiền. Tuy nhiên, chỉ sau một thời gian triển khai thử nghiệm tại TP.HCM, dịch vụ này đã ngưng sử dụng. Cái khó ở chỗ hầu hết tài xế taxi đều không quan tâm dịch vụ vì trung bình một lần thanh toán cả khách hàng lẫn tài xế phải mất khoảng 3,4 phút để thao tác, rất phiền toái.
Hai hình thức nổi bật và được triển khai nhiều nhất trong ứng dụng dịch vụ taxi là dịch vụ thanh toán và gọi taxi qua thẻ hoặc điện thoại. Cách đây hơn 2 năm, Công ty CP Hỗ trợ Dịch vụ Thanh toán Việt Phú đã hợp tác với Mai Linh để ứng dụng dịch vụ thanh toán cước taxi bằng tin nhắn qua Mobivi.
Chỉ cần thực hiện một tin nhắn theo cú pháp đơn giản gửi về tổng đài của Mobivi, khách đã thanh toán xong cước phí. Để ứng dụng dịch vụ này, Việt Phú đã phải chi phí khá lớn, vừa để đầu tư hệ thống, vừa để rải đội ngũ khắp nơi hướng dẫn tài xế thao tác và hàng loạt chương trình khuyến mãi...
Đặc biệt, khi mỗi khách hàng sử dụng dịch vụ, tài xế taxi sẽ được tặng thêm tiền. Tuy nhiên, chỉ sau một thời gian triển khai thử nghiệm tại TP.HCM, dịch vụ này đã ngưng sử dụng. Cái khó ở chỗ hầu hết tài xế taxi đều không quan tâm dịch vụ vì trung bình một lần thanh toán cả khách hàng lẫn tài xế phải mất khoảng 3,4 phút để thao tác, rất phiền toái.
Trong khi các dịch vụ thanh toán vẫn chưa hiệu quả thì gần đây một số công ty lại đưa ra ứng dụng đón taxi bằng smartphone. Trong đó, cạnh tranh nhất là hai thương hiệu Easy Taxi và GrabTaxi. Trong đó, GrabTaxi xuất phát từ Malaysia và đang được sử dụng rộng rãi trên nhiều quốc gia.
Đại diện GrabTaxi cho biết: "Trong khu vực Đông Nam Á đã có hơn 600.000 lượt tải ứng dụng GrabTaxi. Tại thị trường Việt Nam, chúng tôi hy vọng GrabTaxi sẽ đạt được thành công tương tự".
Ông Nguyễn Tuấn Anh, Giám đốc Điều hành GrabTaxi Việt Nam, cho biết thêm, tại Việt Nam, khảo sát ban đầu cũng cho thấy, doanh thu của tài xế tham gia dịch vụ này đã tăng trung bình 20% chỉ sau hơn 2 tháng hoạt động. Vì vậy, mục tiêu đến cuối năm 2014 của GrabTaxi là thuyết phục được 1/3 tài xế taxi trên cả nước sử dụng ứng dụng này.
Ông Adrian Latortue, Giám đốc Điều hành Easy Taxi, cho biết: "Ước tính nếu mỗi xe taxi thực hiện 10 - 15 chuyến hằng ngày bằng các ứng dụng trên smartphone thì đây sẽ là một thị trường lớn để phát triển dịch vụ này. Đó cũng là lý do Easy Taxi đã quyết định đầu tư 15 triệu USD để triển khai mô hình này tại Việt Nam".
Để khuyến khích khách hàng sử dụng dịch vụ, ngay khi mới ra mắt, cả Easy Taxi và GrabTaxi đều tung ra các chương trình khuyến mãi. Từ 7/5- 6/6, khi hành khách gọi taxi qua ứng dụng Easy Taxi sẽ được giảm giá 30.000 đồng cho ba chuyến đi đầu trong tháng với tổng giá trị 90.000 đồng. Trước đó, GrabTaxi cũng dùng điện thoại iPhone 5S làm phần thưởng may mắn cho hành khách sử dụng ứng dụng này.
Sau đó, GrabTaxi còn tặng cho hành khách đi taxi miễn phí đến những địa chỉ, chương trình mà GrabTaxi đã "mua đứt" như tặng 50.000đ/lượt đi dành cho khách hàng là thành viên của Webtretho, tặng thẻ cào 50.000đ cho khách hàng mua điện thoại Mobiistar... Còn đối với tài xế taxi, các công ty này đều hỗ trợ bằng cách bán trả góp smartphone với giá rẻ và thưởng tiền cho từng cuốc xe, từ 20.000 - 30.000đ/chuyến.
Tuy nhiên, dù đưa ra nhiều khuyến mãi và tiện ích, song trên thực tế, dịch vụ này vẫn đang phải đối mặt với nhiều thách thức. Trước hết, ứng dụng công nghệ vào công việc hằng ngày vẫn là một trở ngại đối với phần lớn tài xế taxi. Bên cạnh đó, nếu áp dụng hình thức thu phí từ người dùng trên mỗi chuyến taxi kết nối thành công như cách Easy Taxi đang làm tại Thái Lan hay GrabTaxi ở Malaysia thì sẽ khó thành công tại Việt Nam.
Ông Tuấn Anh cho biết: "Tại Việt Nam, GrabTaxi sẽ không chọn thu phí trên người dùng. Trong tương lai, khi đã đạt đến quy mô thị trường mục tiêu, chúng tôi sẽ thu phí tham gia hệ thống hoặc phần trăm trên mỗi chuyến taxi đối với tài xế”. Tương tự, Easy Taxi cũng có khả năng sẽ thu phí từ tài xế taxi. Tuy nhiên, nhiều ý kiến cho rằng, nếu thu phí từ tài xế sẽ dẫn đến khả năng mở rộng hệ thống gặp trở ngại.
Song, vấn đề lớn nhất mà Easy Taxi hay GrabTaxi đang vướng phải là việc bắt tay hợp tác với các hãng taxi không dễ dàng. Đại diện GrabTaxi và Easy Taxi đều thừa nhận: "Đã đặt vấn đề hợp tác với một số hãng taxi lớn tại TP.HCM nhưng vẫn chưa đi đến đâu". Đây cũng sẽ là trở ngại lớn bởi trước đó, PingTaxi Việt Nam cũng đã bắt tay với Trực tuyến 24/7 để triển khai dịch vụ này.
"Nhưng hiện nay số lượng đầu xe taxi tham gia không như mong đợi, ở Hà Nội có khoảng 1.000 đầu xe, còn TP.HCM chỉ có khoảng 100, tiến độ triển khai mô hình này quá chậm", đại diện Ping Taxi cho biết.

Tìm hiểu việc vẫn xoay quanh bất động sản

Không riêng gì các quỹ đầu tư, thoái vốn theo chu kỳ, nhiều nhà phát triển dự án trong nước đã công bố thông tin bán bớt dự án và phát hành thêm cổ phần cho cổ đông riêng lẻ để huy động vốn triển khai những dự án trọng điểm, đang tạo nguồn thu. Chẳng hạn gần đây, Công ty CP Phát triển Hạ tầng và BĐS Thái Bình Dương (PPI) đã công bố hợp tác đầu tư phát triển dự án Water Garden (P.Hiệp Bình Chánh, Q.Thủ Đức, TP.HCM) với Tập đoàn Đất Xanh.
Đích ngắm là quỹ đất
Các nhà đầu tư Nhật Bản và Hàn Quốc vẫn tiếp tục quan tâm đến thị trường Việt Nam, đặc biệt trong lĩnh vực thực phẩm, hàng tiêu dùng, gỗ, bất động sản và những công ty sản xuất nhưng đang nắm giữ quỹ đất lớn.
Tháng 4/2014, Quỹ Đầu tư Vietnam Property Holdings (VPH) do Saigon Asset Management (SAM) quản lý thoái vốn khỏi Công ty CP Hợp tác Kinh tế và Xuất nhập khẩu Savimex, thông qua việc bán lại 2,33 triệu cổ phần (tương ứng 24,33% cổ phần của Savimex) cho E.Land Asia Holdings (Hàn Quốc). Trong khi đó, hai cổ đông mới là Công ty CP Chứng khoán Bản Việt và Công ty CP Tân Đại Long cũng mua lại 24% cổ phần từ Công ty Quản lý quỹ BVIM, Tổng công ty Thương mại Sài Gòn cùng EVN Land Saigon.
Theo chia sẻ của ông Nguyễn Thế Lữ, Tổng giám đốc SAM, thương vụ bán cổ phần cho E.Land chỉ kéo dài trong vòng 3 tháng và thỏa thuận mức giá cao hơn giá thị trường ngay thời điểm bán (giá thị trường của cổ phiếu SAV vào ngày 28/4/2014 khoảng 18.000 đồng/CP). E.Land là một nhà đầu tư am hiểu nhiều về thị trường Việt Nam, trước đó, năm 2009, đã rót hơn 160 tỷ đồng vào Dệt May Thành Công (TCG) và nắm giữ 40% cổ phần.
Thời điểm đó, ông Lee Eun Hong, Tổng giám đốc TCG, cho biết, E.Land là công ty đa ngành, không chỉ thời trang, còn phát triển các trung tâm thương mại, nhà ở,... tại nhiều quốc gia trên thế giới, trong khi TCG vừa xuất hàng dệt may, vừa có quỹ đất tương đối lớn tại TP.HCM, phù hợp với hướng đi của E.Land là phát triển các khu nhà ở, khu bán lẻ ở các khu vực ngoài trung tâm thành phố, như tập đoàn này đã từng phát triển các dự án ở Hàn Quốc.
E.Land cũng có những mảng kinh doanh tương đồng với Savimex. Điển hình, tại Trung Quốc, E.Land có 1 nhà máy sản xuất đồ gỗ nội thất như Savimex, mang thương hiệu Modern Home. Theo phân tích của Công ty CP Chứng khoán Bảo Việt, hai lĩnh vực chiến lược của Savimex là đồ gỗ nội thất và bất động sản sẽ còn khó khăn trong năm 2014 nhưng với mạng lưới phân phối và quan hệ của Tập đoàn E.Land sẽ giúp Savimex khai phá thêm các thị trường mới bên cạnh thị trường truyền thống là Nhật Bản.
Tuy nhiên, điều đáng nói là Savimex đang sở hữu quỹ đất lớn hơn cả TCG với khoảng 10 dự án nhà ở lẫn du lịch (hơn 2/3 trong số đó là dự án tại TP.HCM). Đây là một trong những yếu tố mà giới đầu tư cho rằng, E.Land sẽ không dừng lại ở tỷ lệ nắm giữ 24,33% cổ phần tại Savimex, như TCG trước đây, từ 10,3 triệu lên 16,3 triệu cổ phiếu sau khi Dệt May Thành Công chính thức niêm yết.
Nhìn nhận về việc mua bán, sáp nhập, đại diện của SAM cho rằng, các nhà đầu tư Nhật Bản và Hàn Quốc vẫn tiếp tục quan tâm đến thị trường Việt Nam, đặc biệt trong lĩnh vực thực phẩm, hàng tiêu dùng, gỗ, bất động sản và những công ty sản xuất nhưng đang nắm giữ quỹ đất lớn.
Bất động sản: Cú hích cho M&A
Việc Novaland công bố đầu tư vào 3 dự án nhà ở tại TP.HCM hồi tháng 2/2014 và mới đây là Công ty Phát triển Nhà Quốc Gia N.H.O (Hàn Quốc) tuyên bố đầu tư 14 dự án ở Việt Nam (với tổng vốn hơn 1 tỷ USD) tạo nên "cú hích" cho thị trường; đồng thời là dự báo cho một năm nhộp nhịp của M&A trong lĩnh vực nhà đất.
Điển hình, ngay trong quý I/2014, Vinaland, thuộc Tập đoàn VinaCapital, đã thoái vốn toàn bộ cổ phần tại Vina Properties Pte, công ty đang sở hữu khách sạn Movenpick Sài Gòn và thu về 16,1 triệu USD. Năm 2007, Vinaland mua lại khách sạn Movenpick và nâng cấp lên 3 năm sau đó (với 278 phòng, 4 nhà hàng, phòng họp...).
Nhưng cũng kể từ thời điểm này, nguồn cung dồi dào của phân khúc khách sạn 4 - 5 sao tại TP.HCM đã tác động đến hiệu suất kinh doanh của khách sạn. Dù giá trị vốn đầu tư mà Vinaland bỏ vào Movenpick Sài Gòn không được tiết lộ, nhưng tại thời điểm năm 2007, giá trị của khoản đầu tư này được ghi nhận là 21 triệu USD. Việc thoái vốn dự án này cũng nhằm làm giảm tỷ lệ nợ trong bảng cân đối của Vinaland.
Thương vụ bán cổ phần tại Movenpick Saigon nằm trong chiến lược thoái vốn khỏi các dự án bất động sản (BĐS) mà các quỹ của VinaCapital đang quản lý; đồng thời mang về giá trị lớn nhất kế từ khi chương trình thoái vốn bắt đầu từ năm 2012 (năm 2013, Vinaland thoái vốn khỏi 3 dự án tại quận 2, quận 9 TP.HCM, Sheraton tại Nha Trang và Hà Nội). Tính đến ngày 30/6/2013, quỹ này nắm giữ nhiều dự án, trong đó 10 dự án lớn với giá trị tài sản ròng (NAV) lên đến 325,1 triệu USD. Được biết, trong vòng 2 năm tới, Vinaland không đầu tư thêm dự án mới.
Không riêng gì các quỹ đầu tư, thoái vốn theo chu kỳ, nhiều nhà phát triển dự án trong nước đã công bố thông tin bán bớt dự án và phát hành thêm cổ phần cho cổ đông riêng lẻ để huy động vốn triển khai những dự án trọng điểm, đang tạo nguồn thu. Chẳng hạn gần đây, Công ty CP Phát triển Hạ tầng và BĐS Thái Bình Dương (PPI) đã công bố hợp tác đầu tư phát triển dự án Water Garden (P.Hiệp Bình Chánh, Q.Thủ Đức, TP.HCM) với Tập đoàn Đất Xanh.
Đây là một trong hai dự án mà PPI chào bán từ năm 2012. Việc "thanh lý” một phần danh mục dự án BĐS cũng đồng thời nằm trong kế hoạch tái cơ cấu tài chính, giảm dư nợ của PPI. Tại đại hội cổ đông năm 2014, PPI đặt mục tiêu giảm từ 40 - 50% dư nợ đến hết tháng 6 năm nay. Ngoài ra, công ty này cũng đang có kế hoạch tăng vốn điều lệ từ 140 lên 250 tỷ đồng thông qua chào bán riêng lẻ. Số tiền thu được từ các đợt phát hành và chuyển nhượng dự án sẽ được PPI ưu tiên cho lĩnh vực cốt lõi là đầu tư hạ tầng.
Trong khi đó, HĐQT Công ty CP Đầu tư Năm Bảy Bảy (NBB) ngày 16/5 ra thông báo về việc phát hành cho cổ đông riêng lẻ nước ngoài 4 - 6 triệu cổ phiếu với tổng giá trị chào bán lên đến 100 - 150 tỷ đồng (thời gian thực hiện từ tháng 6 - 8/2014). Mục đích là để bổ sung nguồn vốn cho sản xuất, kinh doanh.
Tính đến ngày 31/12/2013, trong cơ cấu cổ đông của NBB có hai nhà đầu tư tổ chức: Beira Ltd (thuộc Quỹ DWS Vietnam, Cayman Island, từng đầu tư vào Prime Group - nhà sản xuất gạch ốp lát lớn nhất Việt Nam và thu lời khoảng 60% khoản đầu tư ban đầu khi thoái vốn năm 2012) và VPH lần lượt nắm giữ 14,56% và 11,29% cổ phần. Theo nguồn tin của Doanh Nhân Sài Gòn, hiện có không ít nhà đầu tư tham gia mua cổ phần nhưng nhiều khả năng một nhà đầu tư châu Á (ngoài Việt Nam) sẽ gom trọn số cổ phiếu NBB phát hành lần này.
Một nhà đầu tư châu Á khác là Sunwah Group (Hồng Kông) cũng đã mua lại khu đất 90 Nguyễn Hữu Cảnh, Q. Bình Thạnh để xây khu phức hợp (đây là 1 trong 5 dự án FDI có tổng vốn đầu tư cao nhất quý I/2014). Sunwah đã công bố sở hữu 48% cổ phần của dự án căn hộ tại 90 Nguyễn Hữu Cảnh, TP.HCM (vốn đầu tư trên 200 triệu USD).
Trước đó, chủ sở hữu dự án này là hai đối tác trong nước: Công ty CP Xây dựng số 5 và Sato Investment. Sunwah là một trong những nhà đầu tư châu Á đến Việt Nam sớm nhất. Theo đó, năm 1993, tập đoàn này đã liên doanh với Marubeni Corp. (Nhật Bản) để phát triển cao ốc văn phòng hạng A Sunwah Tower (Nguyễn Huệ, Q.1) và sau đó, năm 2004, Sunwah là đối tác với SSG trong dự án Saigon Pearl (Nguyễn Hữu Cảnh, Q.Bình Thạnh) - nằm cạnh dự án 90 Nguyễn Hữu Cảnh.
Thận trọng là cần thiết
Dù BĐS gây cú hích mạnh mẽ trong hoạt động M&A từ đầu năm đến nay nhưng theo nhận định của một chuyên gia trong lĩnh vực gọi vốn đầu tư nước ngoài, các nhà đầu tư vẫn rất thận trọng với việc tham gia mua cổ phần tại các công ty BĐS vì các khoản nợ quá hạn và tính minh bạch trong điều hành cũng như sổ sách của các công ty này.
"Giá không phải là vấn đề then chốt, nhà đầu tư sẵn sàng trả mức giá cao để đổi lấy khoản đầu tư minh bạch và nhìn thấy đội ngũ quản lý có tầm nhìn tốt", vị chuyên gia này cho biết. Thực tế, nhà đầu tư đang có nhiều lựa chọn để bỏ tiền vào, cụ thể là làn sóng niêm yết lần đầu (IPO) của các tổng công ty, tập đoàn nhà nước (thống kê trên hai sàn chứng khoán từ đầu năm đến nay đã có gần 1.700 tỷ đồng đổ vào các đợt IPO này).
Còn theo TS. Nguyễn Sơn, Vụ trưởng Vụ Phát triển thị trường - Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, các nhà đầu tư Nhật Bản tỏ ra khá quan tâm đến việc IPO của 30 tổng công ty, tập đoàn thuộc các ngành mũi nhọn của Việt Nam, trong đó có hàng không (Vietnam Airlines), dệt may (Vinatex)...
Hơn nữa, tình trạng thị trường chứng khoán giảm điểm trong 2 tuần qua, với việc khối nội bán ra ồ ạt đã trở thành cơ hội cho các nhà đầu tư ngoại nắm giữ những cổ phiếu tốt nhưng giá khá "mềm" như: ITA, GAS, VNM... vì họ tin tưởng vào sự ổn định của thị trường về mặt trung và dài hạn, tức họ sẽ tìm kiếm được một khoản lợi nhuận không nhỏ từ khoản đầu tư trong thời điểm người người "tháo chạy".
Hai tuần qua, thị trường cũng được nhìn nhận là cơ hội cho những nhà đầu tư muốn chi phối sâu hơn vào hoạt động của các công ty mà trước đây họ nhắm đến. Ước tính, từ đầu tháng 5 đến ngày 15/5, trên sàn HOSE, khối này đã mua ròng với khối lượng trên 76 triệu đơn vị với 1.552 tỷ đồng.
Ngoài ra, theo ông Nguyễn Vĩnh Trân, Tổng giám đốc Công ty CP Đầu tư Nam Long, trong chiến lược tăng thêm quỹ đất cho Công ty, các BĐS được xem là nợ xấu tại các ngân hàng đang là nguồn đầu tư khiến họ quan tâm. Tuy nhiên, theo ông Nguyễn Thế Lữ, những thương vụ mua lại nợ xấu của ngân hàng không phải dễ dàng vì bên bán muốn bán giá cao, trong khi việc xử lý nợ xấu, tức bơm tiền vào để phát triển dự án và sau đó bán lại) thì dễ được chấp nhận hơn.